Theo Điều 31 Bộ luật Dân sự 2015 quy định:
Quyền đối với quốc tịch
1. Cá nhân có quyền có quốc tịch.
2. Việc xác định, thay đổi, nhập, thôi, trở lại quốc tịch Việt Nam do Luật quốc tịch Việt Nam quy định.
3. Quyền của người không quốc tịch cư trú, sinh sống trên lãnh thổ Việt Nam được bảo đảm theo luật.
Bên cạnh đó theo Điều 37 Luật Quốc tịch Việt Nam 2008 quy định quốc tịch đối với con nuôi chưa thành niên như sau:
Quốc tịch của con nuôi chưa thành niên
1. Trẻ em là công dân Việt Nam được người nước ngoài nhận làm con nuôi thì vẫn giữ quốc tịch Việt Nam.
2. Trẻ em là người nước ngoài được công dân Việt Nam nhận làm con nuôi thì có quốc tịch Việt Nam, kể từ ngày được cơ quan nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam công nhận việc nuôi con nuôi.
3. Trẻ em là người nước ngoài được cha mẹ mà một người là công dân Việt Nam, còn người kia là người nước ngoài nhận làm con nuôi thì được nhập quốc tịch Việt Nam theo đơn xin nhập quốc tịch Việt Nam của cha mẹ nuôi và được miễn các điều kiện quy định tại khoản 1 Điều 19 của Luật này.
4. Sự thay đổi quốc tịch của con nuôi từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi phải được sự đồng ý bằng văn bản của người đó.
Như vậy, bạn nhận con nuôi là người nước ngoài thì người được nhận làm con nuôi là đứa bé có quốc tịch Thái Lan đó sẽ có quốc tịch Việt Nam kể từ ngày được Bộ tư pháp nước Việt Nam công nhận việc nuôi con nuôi.
Không có quy định nào bắt buộc trẻ em là người nước ngoài được công dân Việt Nam nhận làm con nuôi thì sẽ phải thôi quốc tịch nước ngoài của mình. Cho nên trường hợp này đứa trẻ sẽ có cả 2 quốc tịch Việt Nam và Thái Lan.
Trường hợp nếu người được nhận là con nuôi từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi thì phải được sự đồng ý bằng văn bản của người đó.